• Fri. May 3rd, 2024

Team Music

Tin tức âm nhạc giải trí mới hot nhất

Gọi nhau thưởng trà – nét đẹp văn hóa ẩm thực xứ Nghệ

ByBich Ngoc

Jan 19, 2023
Rate this post

“Mặt trời lên nửa cực

Nhà bên mời trà xanh ”.

Câu thơ đó tôi đã viết trong tập thơ Quê hương sáu tám cách đây hơn mười năm. Âu đó còn là kỉ niệm “sống để bụng chết đi” của một thời thơ ấu gắn bó với quê hương.

Giờ đây, người dân các vùng quê khác nhắc đến chè (chè xanh) không còn là chuyện lạ bởi sự giao thoa văn hóa vùng miền không còn bị giới hạn bởi rào cản địa lý như ba mươi năm trước.

Nhưng dù cuộc sống có hiện đại và đổi thay đến đâu thì tục mời nhau bát chè lam nóng hổi, ​​tỏa hương thơm mát vẫn mãi là một nét đặc trưng trong đời sống ẩm thực của người dân xứ Nghệ ngày nay. quá khứ, hôm nay và ngày mai.

Kể chuyện làng quê: Gọi nhau uống chè - nét đẹp văn hóa ẩm thực xứ Nghệ - Ảnh 1.

Quán chè xanh chợ Liễu. Ảnh: NVCC

Tôi là một người con của đất nước. Tuổi thơ tôi được “tắm mình” trong không khí sinh hoạt văn hóa vùng miền, với tình cảm làng quê sâu nặng ấy.

Mặt trời lên đến lưng chừng sào – thời đó nông dân gọi là “mở phiên cày”, tức là tháo cái ách để kéo cày cho trâu bò, kết thúc công việc đồng áng. Cách tính thời gian này cũng rất độc đáo ở vùng quê này. Vào thời đó, rất ít người có một chiếc đồng hồ, thậm chí là một chiếc đồng hồ báo thức đơn giản.

Mùa hè xứ Nghệ nắng như đổ lửa, gió thổi từng cơn rát mặt. Dân bản phải tranh thủ ra đồng từ rất sớm, tầm bốn, năm giờ sáng. Làm việc khoảng tám, chín giờ, cả người và gia súc phải trở về làng để tránh cái nắng như thiêu đốt. Mọi người về nhà nghỉ ngơi, uống trà giải nhiệt. Trâu, bò được buộc trên bờ tre hoặc dưới bóng cây để tránh nắng, nhai rơm, ăn cỏ, đợi đến ba bốn giờ chiều rồi cùng chủ ra đồng cho đến tối. Vào mùa trăng, người dân cũng tranh thủ những đêm trăng thanh gió mát để làm những công việc đồng áng đơn giản như cắt rơm, tát nước, đắp bờ. Có thể là câu ca dao “Hỡi nàng tát nước bên bờ / Sao lại múc ánh trăng vàng”. Nó được sinh ra trong bối cảnh đó?

Trở lại câu chuyện mời trà của quê hương.

Sáng sớm, khi mẹ tôi đi chợ về ở chợ Liêu, trong giỏ đã có một bó chè xanh tươi. Về đến nhà thu xếp hàng hóa, cô bắt tay vào pha trà, nấu nước. Rửa sạch chè, ngắt cành, đợi nước gần sôi thì vò kỹ rồi cho vào ấm. Chè xanh chắt lấy nước. Làng có vài giếng đất (giếng được tạo ra bằng cách đào một hố sâu như hố bom để chứa nước) nhưng không có giếng nào có nước để nấu chè xanh ngon. Cả vùng chỉ có giếng Chùa, giữa đồng trống là nước tốt nhất. Nước giếng Chùa không bao giờ cạn, trong vắt, ngọt mát, được dân làng chắt lấy về cho vào chum, vại riêng để nấu chè lam hoặc làm tương.

Khi nước đã sôi kỹ, mẹ múc một gáo dừa, cho vào ấm trà, tráng qua một lần nước rồi chắt ra để khử bớt mùi hăng của chè tươi, sau đó đổ đầy nước và để ấm khoảng một nửa. một giờ.

Khi chè vừa chín, mẹ tôi bước ra góc sân trước, rồi cả con ngõ sau về phía nhà hàng xóm và gọi: “Chú Ch’i”! Hôi nách mới bác Châu ơi! Bà Sam, mới đó!… Đó là khi tôi bận đi học, không phải ngày nghỉ hay buổi trưa, nhiệm vụ gọi điện đó là do mẹ tôi giao cho. Rồi lớn lên, mấy đứa em tôi lần lượt làm cái nghề mà có lẽ chỉ ở xứ Nghệ quê tôi mới có.

Kể chuyện làng quê: Gọi nhau uống chè - nét đẹp văn hóa ẩm thực xứ Nghệ - Ảnh 2.

Cảnh uống trà buổi sáng. Ảnh: NVCC

Khi khách đến chơi nhà, trên bàn đã bày sẵn hai hàng ấm trà (bát sứ Hải Dương) với đầy nước chè xanh thơm, tươi, hấp dẫn. Trên bàn ngoài chè chát thường có thêm rổ khoai lang luộc hoặc khoai chiên, đậu phộng luộc hay đậu phộng rang, mùa nào thức ấy. Nếu là khoai lang luộc thì luôn có một bát cà tím trắng hoặc một bát đậu để ăn kèm với khoai cho đậm đà và dễ nuốt. Một củ khoai, hai củ cà tím, ba xô nước – đó là “tiêu chuẩn” chè buổi sáng của người nông dân thời bấy giờ. Đó là cách mà bài hát đã tồn tại qua nhiều thế hệ, lan truyền khắp đất nước, quyến rũ hơn bất kỳ quảng cáo hiện đại nào: “Ai ơi, cà xứ Nghệ / Càng mặn càng giòn / Chè xanh xứ Nghệ / Càng chát càng ngon”.

Trẻ con thì không thích trà đắng, nhưng tôi thích uống trà xanh pha mật mía khi đi cắt cỏ hoặc phụ giúp việc đồng áng cho mẹ. Nước giải khát đó uống đến đâu mát ruột gan đến đó, tự nhiên thấy người khỏe hẳn ra, mọi nóng bức, mệt mỏi của ngày hè tan biến hết. Tôi cũng rất thích ăn khoai lang với mật ong. Mùi khoai quyện với vị ngọt của mật mía đọng lại trong vị giác của một cậu bé đang đói.

Nhiều khi cao hứng, ba tôi không tìm được lọ ruốc mang ra, mời mỗi người vài chén để nhâm nhi với lạc rang, hạt to tròn béo ngậy mà chỉ có ở quê hương xứ Nghệ mới có. Cuộc sống lúc đó tuy cơ cực nhưng cũng đủ thết đãi bà con lối xóm những món ăn, thức uống dân dã vào buổi mở cầy, sau những giờ lao động vất vả.

Quanh quẩn bên bàn trà, chuyện làng, chuyện xóm, chuyện đánh Mỹ, chuyện Liên Xô, Trung Quốc cứ xúm xít. Cảnh tượng đó vẫn in sâu trong tâm trí tôi. Đó là hồn quê trong hành trang của mỗi người con quê hương, dù ở quê hay đi làm xa đều mang theo suốt cuộc đời, nâng niu, trân trọng.

Bây giờ mỗi lần về quê tôi vẫn được thưởng thức món chè truyền thống của quê hương. Vẫn là trà xanh tươi, nóng hổi, ​​nhưng giờ là do chị dâu dậy sớm và om.

Không còn cảnh các bà, các cô đi chợ Liễu, tay xách giỏ hàng “xử” ngang hông hay gánh nặng trên quãng đường gần ba cây số. Giờ đây, việc đi chợ trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn. Đi xe máy ù ù, sớm mai trông thấy.

Trà mua một lần, để tủ lạnh ba bốn ngày. Không phải chè Gôi (chợ Gôi) bên Hương Sơn, Hà Tĩnh của những người buôn gánh nặng trĩu hay đạp xe chở đầy chè rong ruổi gần hai mươi cây số qua bến đò Vân Rú. Bây giờ là chè Gáy, chè Láng ở ngược huyện Anh Sơn hay chè Thanh Chương. Trên đó, là những nông trường chè bạt ngàn. Không ai buôn bán bằng vai hay xe đạp nữa. Chè được chở bằng xe tải, sáng sớm đã thấy đậu trước cổng chợ Liêu để xả hàng, người mua tha hồ lựa.

Ăn sáng xong, mới khoảng sáu rưỡi tôi đã thấy bố sắp xếp ghế, dọn chén. Ông cụ năm nay đã ngoài chín mươi nhưng trông vẫn rất “phong độ”! Gia đình có cha mẹ, nhưng họ đều khỏe mạnh, con cái như bắt được vàng.

Ngày nay, không có nhiều người uống nhiều trà như họ. Thay vào đó, hãy sử dụng cốc thủy tinh hoặc cốc sứ. Công việc đồng áng giờ nhàn hạ hơn vì tất cả các khâu từ xới đất, trồng trọt đến thu hoạch đều được thuê mướn. Không còn “buổi khai giảng” nên giờ uống trà cũng sớm hơn, giống như người thành phố uống cà phê vào buổi sáng. Cuộc sống đổi thay theo thời cuộc nên giờ không ai rủ nhau luộc khoai lang, khoai chiên nữa. Những điều đó là trong quá khứ. Một củ khoai, hai củ cà tím có lẽ đã trở thành di sản quý hiếm chỉ còn lại trong câu ca dao xưa. Chè chát vẫn còn đây, vào mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều trên vùng quê yên ả, bình dị.

Bây giờ, người được giao nhiệm vụ gọi hàng xóm sang uống trà là Tép, cháu của anh trai tôi. Có vẻ anh rất thích công việc này nhưng đến giờ vẫn chưa thấy ông bà dặn dò gì, anh liền chạy sang nhà hỏi thăm. Rồi anh ta đạp chiếc xe đạp mini, vụt đến trước cổng từng nhà và hét to hết cỡ: “Mời anh Thìn, chị Nhân, anh Sơn… vào Cô Xuân uống nước!”.

Phương tiện điện tử con người Việt Nam Mở chuyên mục “Kể chuyện làng quê” từ ngày 4 tháng 3 năm 2020. Chuyên mục dành cho tất cả các tác giả chuyên và không chuyên có tình yêu làng quê và muốn chia sẻ câu chuyện có thật của mình đến bạn đọc.

Bài báo không được đăng trên bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng hoặc ấn phẩm nào. Tác giả vui lòng ghi rõ họ tên, bút danh (nếu có), địa chỉ liên lạc, email, số điện thoại, số tài khoản nhận nhuận bút.

Những bài hay nhất, chất lượng nhất sẽ được chọn để trao giải 2 tháng một lần.

Các bài viết phối hợp với chuyên mục “Chuyện làng” xin gửi về email: [email protected]; Điện thoại liên hệ: 0903226305.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *